Bỏng lạnh là gì?

18.08.2022

Bỏng lạnh là một chấn thương do da và các mô bên dưới bị đóng băng. Trong giai đoạn sớm nhất của Bỏng lạnh, được gọi là tê cóng, không có tổn thương vĩnh viễn trên da. Các triệu chứng bao gồm da lạnh và cảm giác châm chích, sau đó là tê và da bị viêm hoặc đổi màu. Khi tình trạng tê cóng trở nên tồi tệ hơn, da có thể trở nên cứng hoặc trông giống như sáp.

1. Bỏng lạnh là gì?

Bỏng lạnh là khi da tiếp xúc với nhiệt độ đóng băng làm tổn thương các vùng da của bạn và các mô bên dưới. Đây là một tình trạng có thể điều trị được nhưng có khả năng nghiêm trọng.


2. Triệu chứng của bỏng lạnh

Khi trời lạnh, da không được che phủ có thể bị đỏ hoặc đau. Đây được gọi là tê cóng và đó là dấu hiệu cảnh báo sớm về bỏng lạnh. Nếu điều này xảy ra, hãy nhanh chóng tìm nơi trú ẩn ấm áp.

Các triệu chứng của bỏng lạnh phụ thuộc vào mức độ sâu của nó vào cơ thể. Có ba giai đoạn. Chứng tê cóng sớm ảnh hưởng đến các lớp trên cùng của da. Những trường hợp nặng hơn có thể đi đến tận cơ và xương.

Giai đoạn đầu: Da chuyển sang màu vàng nhạt hoặc trắng, nó có thể ngứa, châm chích, bỏng hoặc cảm thấy như "kim châm".

Giai đoạn trung gian: Da trở nên cứng, nó trông sáng bóng hoặc sáp, mụn nước chứa đầy chất lỏng hoặc máu.

Giai đoạn sau: Da rất cứng và lạnh khi chạm vào. Da sạm đi nhanh chóng. Nó có thể trông màu xanh lam và sau đó chuyển sang màu đen

Một số người không biết họ bị bỏng lạnh vì khi tình trạng này trở nên tồi tệ hơn, bạn không thể cảm nhận được khu vực đó nữa. Đó là lý do tại sao bạn cần quan sát những thay đổi của màu da.

Các triệu chứng khẩn cấp về bỏng lạnh 

Đến phòng cấp cứu ngay lập tức nếu bạn nghi ngờ bị bỏng lạnh. Một số dấu hiệu cảnh báo có thể bao gồm: Da của bạn thay đổi màu sắc hoặc trở nên cứng. Da của bạn vẫn còn tê liệt (bạn không thể cảm thấy bất cứ điều gì). Bạn bị đau dữ dội khi da tan ra. Da bắt đầu nổi mụn nước.


3. Nguyên nhân gây ra bỏng lạnh

Giống như nước chuyển thành đá khi nhiệt độ giảm xuống, ngón tay, bàn tay, ngón chân, bàn chân - thậm chí cả mũi và tai của bạn - có thể đóng băng nếu tiếp xúc với thời tiết quá lạnh hoặc bạn chạm vào vật gì đó rất lạnh, chẳng hạn như đá hoặc kim loại đông lạnh. Nằm xa lõi của bạn hơn, đây là những khu vực đầu tiên bị ảnh hưởng bởi lưu lượng máu giảm khi gặp lạnh. Bạn có nhiều khả năng bị bỏng lạnh nếu không ăn mặc phù hợp với thời tiết lạnh, gió hoặc ẩm ướt hoặc mặc quần áo quá chật trong những điều kiện đó. Tình trạng bỏng lạnh xảy ra sớm bao lâu tùy thuộc vào mức độ lạnh và gió của bên ngoài. Nó có thể xảy ra nhanh hơn bạn nghĩ. Trong thời tiết lạnh giá, có thể xảy ra bỏng lạnh chỉ sau 5 phút.


4. Điều trị bỏng lạnh như thế nào?

Đầu tiên, hãy đến một nơi ấm áp. Đừng chà xát da của bạn. Điều đó có thể làm hỏng nó nếu nó bị đóng băng. Không đặt tay hoặc chân lạnh vào bồn nước nóng. Nếu da của bạn bị tê, bạn có thể không cảm nhận được nếu nước quá nóng. Điều đó có thể gây ra thiệt hại thêm. Thay vào đó, hãy ngâm bàn tay và bàn chân bị ảnh hưởng trong nước ấm hoặc đặt khăn có nước ấm lên những vùng bị ảnh hưởng không thể ngập nước, như mũi và tai, trong ít nhất 30 phút. Da của bạn sẽ bắt đầu lành lại nhanh chóng. Khi tan băng, nó có thể có màu đỏ. Bạn cũng có thể cảm thấy đau nhói hoặc cảm giác kim châm, như “kim châm”.

Tại bệnh viện, các nhân viên sẽ cố gắng làm ấm bạn, khôi phục lưu lượng máu đến khu vực bị ảnh hưởng và ngăn chặn tổn thương thêm. 

Bạn có thể: 

- Đặt miếng bọt biển ấm lên mũi, tai hoặc các vùng cơ thể bị bỏng lạnh khác 

- Được cho uống thuốc giảm đau cho chứng đau dây thần kinh có thể bùng phát khi da của bạn nóng lên 

- Làm các xét nghiệm hình ảnh, chẳng hạn như MRI, để xem có bao nhiêu lớp da bị tổn thương 

Một số nghiên cứu cho thấy rằng aspirin hoặc các loại thuốc làm loãng máu khác có thể giúp khôi phục lưu lượng máu ở các bộ phận cơ thể bị tê cóng nghiêm trọng nếu bác sĩ cho bạn dùng chúng trong vòng 24 giờ sau khi khởi động lại. Một phương pháp điều trị được gọi là liệu pháp oxy hyperbaric, trong đó bạn nhận được 100% oxy trong một môi trường có kiểm soát, cũng đang được nghiên cứu như một phương pháp điều trị khả thi. Cho đến nay, các kết quả là trái ngược nhau.